Người dùng thường có thói quen tìm trên Google Scholar nhiều như tìm ở cơ sở dữ liệu trả phí. Nhưng so với cơ sở dữ liệu, kết quả từ Google Scholar thường không như mong đợi. Như vậy, những cơ sở dữ liệu thường cung cấp những thông tin chuyên môn đúng với yêu cầu người dùng hơn Google Scholar.
Google là một công cụ giúp tìm kiếm thông tin trên Internet, như vậy người dùng tin phải quay trở lại vấn đề giả định ban đầu về Internet, trong đó thách thức đặt ra cho người dùng là cần biết cách đánh giá và chọn nguồn tài liệu đáng tin cậy sử dụng cho mục đích học tập và giảng dạy. Làm thế nào để biết được trang web này tin cậy hoặc không tin cậy? Nguồn tin nào nên được ưu tiên sử dụng trong nghiên cứu? Nguồn tin đó nên trích dẫn như thế nào cho đúng quy chuẩn và tránh đạo văn? Không nơi nào khác ngoài thư viện sẽ đào tạo cho người dùng những kỹ năng thông tin đó (information literacy). Vì vậy, thư viện không những không thể thiếu với người dùng tin, mà còn giữ vai trò “hoa tiêu” trong việc hướng dẫn người tìm tin. Khi so sánh thư viện với Google, có nhiều quan điểm “dung hòa” cho là “Google đã tốt, thư viện còn tốt hơn”, nhưng cũng cần nói rõ thêm rằng, Google chỉ tốt đối với những người đã nắm vững kỹ năng thông tin. Vì vậy, khó có thể phủ nhận vai trò của thư viện trong việc định hướng thông tin cho mục tiêu học tập và giảng dạy.
Nguồn tài liệu của thư viện không đáp ứng được nhu cầu của tôi
Tôi không đến thư viện vì không có tài liệu dành cho tôi: một lý do rất chính đáng. Nhưng trước khi có suy nghĩ đó, người dùng, những nhà quản lý cũng tự hỏi là mình đã góp phần chọn lọc nguồn tài liệu để đáp ứng nhu cầu chưa, đã phân bổ đủ ngân sách để bổ sung tài liệu chưa? Nguồn tài liệu là cốt lõi của thư viện, là yếu tố tạo nên đặc tính của thư viện. Đặc tính đó không chỉ được quyết định bởi nhân viên thư viện mà còn sự đóng góp của rộng rãi cộng đồng người dùng, trên phương diện nhận thức lẫn tài chính. Thực vậy, sự hợp tác trong việc chọn tài liệu giữa người dùng và thư viện chưa được đề cao, trong đó thư viện thường không nhận được sự sẵn lòng từ người dùng. Sự phong phú của tài liệu phụ thuộc vào ngân sách, nhưng nguồn tài chính hạn hẹp đã dẫn đến tình trạng “nhỏ giọt” trong việc bổ sung tài liệu mới, trong khi lượng tài liệu in ấn và điện tử phát hành hằng năm lại tăng theo cấp số nhân. Hệ quả là thư viện không đáp ứng nhu cầu người dùng, và bộ ba “người dùng”, “nhà quản lý” và “thư viện” lại rơi vào vòng luẩn quẩn “cung cầu bất cập”.
Dựa vào mối quan hệ cá nhân, khả năng tìm kiếm của tôi là đủ rồi!
Nhiều giảng viên cho rằng mình có thể tự tìm lấy tài liệu nhờ vào mối quan hệ cá nhân (email, thư ngỏ để xin tài liệu), chia sẻ tài liệu trong đồng nghiệp, hiệp hội và có đủ khả năng tự tìm kiếm. Người dùng có khả năng tự tìm lấy tài liệu mình cần, bằng cách này hay cách khác, là một dấu hiệu đáng mừng, vì suy đến cùng, mục tiêu của thư viện là giúp cho người dùng ít phụ thuộc vào thư viện. Nhưng khi làm nghiên cứu, với một danh sách dài những tài liệu tham khảo cần lấy toàn văn, người tìm không thể email đến từng cá nhân để xin từng bài báo được báo giá khoảng 30USD trên cơ sở dữ liệu. Biết đâu thư viện của anh đã có đăng ký mua bài báo đó và có thể cung cấp khi anh yêu cầu.
Sinh viên chỉ cần đọc tài liệu của tôi cung cấp là đã quá đủ rồi!
Điều này may ra có thể đúng với hình ảnh “ông đồ gõ đầu trẻ” trong giáo dục thời phong kiến, đây là quan niệm sai lầm trong xã hội thông tin ngày nay. Nếu đúng thì sinh viên đã không cần đến thư viện, nhưng rồi thư viện nào cũng có số lượng bạn đọc chiếm ưu thế là sinh viên. Ngược lại, giảng viên cần khuyến khích sinh viên đến thư viện để nghiên cứu thêm tài liệu, hoặc cung cấp danh sách tài liệu đọc thêm có ở thư viện cho sinh viên, thậm chí có thể yêu cầu thư viện bổ sung những tài liệu đó.
Nhân viên thư viện không giúp được gì vì không biết gì về chuyên môn của tôi
Không biết về chuyên môn của người dùng là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, có cần phải đào tạo một nhân viện thư viện thông thạo hết tất cả các chuyên ngành không? Nếu có thì người đó sẽ không là một thư viện viên, mà là một nhà bác học. Vấn đề còn lại là liệu nhân viên có giúp được gì không? Nhân viên thư viện không có chuyên môn về y học, nhưng có khả năng chỉ dẫn người dùng đến nguồn thông tin y học, cung cấp cho người dùng gói thông tin theo chủ đề về y học. Trở lại cách ví von về Internet và Google, người đánh bắt cá (người tìm tin) trên đại dương (Internet) nhờ ngư cụ (Google), nhân viên thư viện lúc này sẽ là hoa tiêu hướng người đánh bắt cá ở đâu cho được nhiều cá và được nhiều cá ngon (đánh giá, chọn lọc nguồn tin đáng tin cậy).
Nhân viên thư viện là người trợ giảng: một điều không tưởng
Điều này hoàn toàn không xa lạ ở các môi trường đại học nước ngoài. Nhân viện thư viện là người cộng tác với trường, giảng viên trong việc soạn chương trình và giáo án giảng dạy, trong đó đặt vai trò người học làm trọng tâm (Julien và Given, 2003). Stahl (1997) và Larson (1998) cho rằng thư viện cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc hỗ trợ đội ngũ giảng viên soạn bài tập cho mỗi môn học sao cho phù hợp với nguồn tài liệu của thư viện (được trích dẫn bởi Julien và Given, 2003). Doskatch (2003) cho rằng nhân viên thư viện cần tham gia vào hội đồng soạn thảo chương trình giảng dạy của trường như một thành viên, đồng thời kết hợp với các khoa thiết kế các bài tập cho từng môn học để định hướng cho sinh viên học tập suốt đời. Vai trò của nhân viên không còn bị giới hạn bởi tên gọi “thư viện” mà còn nối dài đến các trường và tham gia vào quá trình dạy và học. Nhân viên thư viện có thể trở thành người giảng dạy trong trường hợp môn học đó yêu cầu. Ở môi trường đại học Việt Nam, điều này còn quá xa lạ và khó chấp nhận trong thực tế lẫn nhận thức con người. Xu hướng đúng đã được minh chứng, vậy ít nhất chúng ta cũng cần công nhận thực tế này để có những bước phát triển phù hợp, trong đó cần có sự tham gia tích cực của người dạy lẫn nhân viên thư viện. Nếu không có mối liên kết nào giữa thư viện và trường học thì giáo dục chưa thực sự đổi mới, người học vẫn chưa được xem là trọng tâm, và mục tiêu học tập suốt đời khó mà đạt được.
3. Đề xuất
Để thư viện hỗ trợ tốt hơn cho sự nghiệp đổi mới phương pháp dạy và học, cần nhìn nhận tích cực hơn về vai trò của thư viện. Điều này cần có sự tham gia của những người quản lý, người dạy và học, và cả nhân viên thư viện.
Tăng cường liên kết chặt chẽ giữa thư viện với trường, khoa
Vấn đề này được xem là tất yếu. Chúng ta nhận thấy rằng không ai có thể phát triển một cách cô lập, không có mối liên kết với các yếu tố bên ngoài. Môi trường giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật đó (xem Hình 1). Trong quá trình hợp tác, mỗi bên sẽ có những nhìn nhận đúng đắn hơn về vai trò của mỗi bên.
Người dạy cũng cần tham gia nhiều hơn đến các hoạt động thư viện như góp ý, đề xuất bổ sung tài liệu, tận dụng nguồn tài liệu, dịch vụ của thư viện, khuyến khích sinh viên sử dụng tài liệu của thư viện để đạt được những kết quả sau: hoàn thiện bộ sưu tập, hiểu rõ hơn về thư viện của trường, có cái nhìn mới về thư viện, sinh viên có thêm kiến thức ngoài giáo trình được quy định.
Những người quản lý cần nhận thấy vai trò điều tiết, thúc đẩy trong việc tăng cường hợp tác chặt chẽ của người dùng và thư viện, cần nhìn nhận sự phát triển thư viện song hành với sự phát triển của trường và nâng cao chất lượng giáo dục. Nói cách khác, trường cần xem xét và đầu tư phát triển thư viện trên nhiều mặt: con người, tài liệu, hạ tầng công nghệ thông tin và kiến trúc.
Nhân viên thư viện muốn có sự nhìn nhận đúng đắn của người dùng về mình, trước hết nhân viên phải hoàn thiện chính mình, không ngừng bồi dưỡng nghiện vụ, chuyên ngành thông tin mà mình phụ trách, làm tốt các dịch vụ thư viện, xóa bỏ định kiến rằng giảng viên không xem trọng nghề thư viện.
Thư viện và người dùng cần có thêm
những diễn đàn trao đổi nghiệp vụ, giao lưu để hiểu thêm về nhau như tổ chức hội thảo, tập huấn, buổi nói chuyện, trong đó nhân viên thư viện phát huy vai trò hướng dẫn thông tin của mình, còn người dạy giúp nhân viên có thêm kiến thức chuyên môn mà họ phụ trách.
4. Kết luận
Hệ thống thư viện sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới giáo dục. Hệ thống này được đầu tư phát triển hay không phụ thuộc rất lớn vào sự công nhận của những nhà quản lý và người dùng. Thư viện ngày nay vẫn còn bị nhiều định kiến kìm hãm sự phát triển. Hơn bao giờ hết, thư viện cần đến bạn đọc và cũng có điều ngược lại. Xu hướng phát triển của thư viện là giúp bạn đọc ít phụ thuộc vào thư viện, giảm công sức đi lại của bạn đọc, khi đó người dùng đã nắm vững kỹ năng thông tin để tự mình giúp mình, và các dịch vụ hầu như được cung cấp từ xa. Nhưng để đến được bước tiến đó, bạn đọc trước hết hãy đến thư viện. Nếu dùng văn chương để nói đến thư viện, thi hào Goethe đã nói “Đến thư viện như đi vào một nơi phô diễn sự giàu sang tột đỉnh, ở đó lãi suất hậu hĩnh đang được thanh toán một cách thầm lặng”. Người hưởng lãi suất trực tiếp chính là người dùng, nhưng nếu nhìn rộng hơn, trên phương diện giáo dục, lãi suất hậu hĩnh đó là của tất cả chúng ta.
5. Tài liệu tham khảo
Chen, H. (2010). The perspectives of higher education faculty on Wikipedia.
The Electronic Libraries, 28(3), 361-372.
Doskatsch, I. (2003). Perceptions and perplexities of the faculty-librarian partnership: an Australian perspective.
Reference Service Review, 31(2), 111-121.
Herring, M. Y. (2004). 10 điều Internet không thể thay thế cho thư viện [tài liệu dịch].
Bản tin Thư viện - Công nghệ Thông tin, Tháng 4,27-30.
Herring, S. D. (2001). Facultiy acceptance of the world wide web for student research.
College & Research Libraries, May, 251-258.
Hightower, H., &Caldwell, C. (2010). Shifting Sands: Science Researchers on Google Scholar, Web of Science, and PubMed, with Implications for Library Collections Budgets. Truy cập ngày 22/11, 2011, từ
http://www.istl.org/10-fall/refereed3.html.
Huỳnh, Đ. C., Huỳnh, T. X. P., & Hoàng, T. T. T. (2011).
Giữ chân nhân viên thư viện thế hệ mới: một thách thức trong thời kỳ hội nhập. Báo cáo trình bày tại hội thảo Ngành Thông tin - Thư viện Việt Nam: đổi mới và hội nhập quốc tế. Hà Nội.
Huỳnh, T. X. P. (2008). Thuật ngữ Thư viện: Digital Narcissism.
Bản tin các Trung tâm Học liệu, Số 2. Truy cập ngày 22/11, 2011, từ
http://www.lrc-hueuni.edu.vn/bantin/thuatngu/thuatngu.html
Julien, H., & Given, M. L. (2003). Faculty-librarian relationship in the information literacy context: a content analysis of librarians' expressed attitudes and experiences. CAIS/ACSI, (?), 169-185.
Nguyễn, H. C. (2009). Những bài học kinh nghiệm rút ra từ lịch sử thư viện đại học Hoa Kỳ.
Thông tin tư liệu, 3.
Trần, T. Q. (2007). Đào tạo nguồn nhân lực ngành thông tin – thư viện ở Việt Nam 50 năm nhìn lại.
Thư viện Việt Nam, 1, 11-16.
*
Tài liệu tham khảo được trích dẫn theo kiểu APA (American Psychological Association).